Giới thiệu thôn Hà Khê
- Chuyên mục: Thông tin - Tin tức
Thôn Hà Khê (làng Ngô, làng Ngò) thuộc xã Vân hà, Đông Anh, thành phố Hà nội - có nguồn gốc là xã Ngô Khê, Tổng Hà lỗ (Rỗ), Huyện Đông Ngàn (Phủ Từ Sơn), trấn Kinh Bắc.
Tháng 3 năm 1946, hợp nhất 4 xã: Thiết Úng, Thiết Bình, Cổ Châu, Hà Khê thành xã Thiết Hà Châu.
Năm 1949, sáp nhập xã Thiết Hà Châu và xã Vân Điềm thành xã Vân Hà thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc sáp nhập xã Vân Hà thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh vào thành phố Hà Nội quản lý.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, Hội đồng Chính phủ ban hành 78-CP về việc xã Vân Hà thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội quản lý.
Hậu Thần bi ký 後神碑記
- Chuyên mục: Lịch sử - Di tích
Hậu thần bi kí - 后神碑記 - Kí hiệu: 3197/3198
Thác bản bia xã Ngô Khê huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn 慈山府東岸縣吳溪, đình Hà Khê tổng Hà Khê huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Thác bản 2 mặt, khổ 71 x 123 cm, gồm 37 dòng chữ Hán, toàn văn ước khoảng 600 chữ, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Chính Hòa thứ 23 (1702).
Người soạn: Đặng [Đình Tướng] 鄧廷相, tên hiệu: Chúc Trai; học vị: Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670); chức vị: Công bộ Tả thị lang; tước Ứng Xuyên nam.
Người viết: Đào Đình Giáp 陶廷甲; chức vị: Thị nội Thư tả.
Người khắc: Nguyễn Duy Nhân 阮維仁; chức vị: Thợ đá xã An Hoạch huyện Đông Sơn.
Chủ đề:
– Bầu Hậu, gửi giỗ, biểu dương việc thiện.
– Hành trạng, công tích nhân vật.
– Sinh hoạt làng xã.
– Xây dựng, trùng tu di tích.
Tóm lược nội dung:
Ông Nguyễn Công Nhậm, chức Vương phủ Thị nội Giám ty Lễ giám tri Giám sự Chánh đội trưởng Tứ Trung hầu, có ân huệ nhiều với dân làng. Dân mời ông tham gia việc dựng đình làng. Ông làm hội chủ hưng công dựng đình làng và cúng 2 mẫu ruộng làm ruộng hương hỏa. Dân làng tôn bầu ông làm Hậu thần để báo ơn ông. Định lệ cúng giỗ hàng năm sau khi ông qua đời và kê số ruộng, xứ đồng ruộng đình.
--------------------------------------------------
Dịch nghĩa:
<3197>
Văn bia Hậu Thần
Văn bia thờ phụng xã Ngô Khê huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn.
Ôi! Việc có thể lưu truyền thì nên ghi vào sách, viết sách không đủ thì có thể dựng bia, là để nêu cái nghi thức long trọng, tình cảm nồng hậu đến vô cùng vậy.
Mến nghĩ Vương phủ Thị Nội giám, Tư lễ giám Đồng Tri giám sự, Chánh đội trưởng, Tứ Trung hầu Nguyễn công tên huý là Nhậm, tính trời thư thái, tâm địa hòa bình. Thờ cha mẹ bằng đạo hiếu, họ hàng làng nước đều ngợi khen; thờ bề trên hết lòng trung, cố hữu thân bằng luôn công nhận. Nơi tiềm để thân cận có duyên, chốn cung cấm cần lao gắng sức, mọi người đều đánh giá là người nội thị có tài.
Vào lúc bấy giờ, Thánh thượng thương nhớ bậc kỳ cựu, triều đình khen ngợi bề tôi phò giúp cũ, nên được thăng chức quan cao, được nhận lộc hậu, ơn trạch thấm nhuần như sông nước mênh mang, bóng cây tươi tốt trong chốn sa bà, người gần thì vui vẻ, người ở xa thì mến mộ. Đến nay bản xã, được đội ơn che chở đã lâu, lòng đau đáu muốn báo đáp, bèn bàn bạc với nhau rằng: “Ngài của chúng ta đối với ấp ta, đem điều thiện để khiến người, dùng ân huệ để đãi dân, vốn thế đã lâu. Chúng ta biết phải báo đáp làm sao? Nên đem thờ như thần minh, ngõ hầu xứng đáng. Tuy nhiên, báo đáo mà không để lại dấu tích, thì việc báo đáp ấy không được biểu dương, thì lấy gì để bảo rõ cho đời sau được biết? Vì thế cho nên, báo đáp phải có lý do, từ đời trung cổ về sau, luôn luôn đều như thế. Nay bàn tính, chẳng bằng xin ngài chúng ta dựng cho làng ta một tòa đại đình, dựng bằng gỗ lim, lợp bằng ngói, thuê thợ, tế lễ, tất thảy đều đứng ra thực hiện. Với lại để lại cho làng 2 mẫu ruộng xấu, để chi dùng việc cúng tế ngày sau. Đợi sau khi ngài chúng ta trăm tuổi, thiết bài vị ở bên trái miếu đình, hằng năm vào ngày giỗ, thì bản xã sửa 1 con lợn, 1 mâm xôi, 1 vò rượu để cúng tế. Hằng năm vào đám cầu phúc, thì cúng 1 mâm xôi. Các tiết lễ cơm mới, lễ sắm tết quanh năm cũng tùy nghi cúng tế, lễ sau thờ thần một bậc. Còn ông cụ (bố) của ngài chúng ta cũng bày ở bên phải miếu đình, quanh năm thờ cúng, mãi mãi vô cùng, để trọn vẹn cái nghĩa thi báo đến muôn đời”.
Bàn xong, đem sự tình ấy đến thỉnh. Ngài Nguyễn công biết hậu tình, vui vẻ đồng ý. Từ đó, đình to dựng sừng sững, cung tường lặng lẽ ở giữa trời; ruộng xấu rộng thênh thang, thóc lúa bạt ngàn trên mặt đất. Người tốt, việc tốt, làng có tục tốt, người nghe người xem đều rất lấy làm lạ. Việc xong, đến xin tôi bài văn để ghi lại sự thực.
Ôi! Cho đi và báo đáp ấy là lễ vậy. Mà cho nơi đáng cho, báo điều đáng báo, chẳng phải điều tự nhiên của lý trời và phép dân ư? Đời sau, người sinh ra ở làng này, trông thấy tấm bia này thì nhớ đến đức ấy của ngài, lòng nhớ đến đức ấy thì phải yêu lấy tấm bia này. Hương khói, cúng tế ngài, luôn khiến cho ơn ấy đức ấy của ngài sáng ngời cùng nhật nguyệt, dài lâu cùng sông núi, như thế thì phong tục nhân hậu của xóm làng cũng sáng ngời, dài lâu cùng vậy. Chẳng đúng lắm sao. Vậy nay làm bài ký.
Bấy giờ là:
<3198>
Ngày lành tháng cuối xuân năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Chính Hòa thứ 23 (1702) dựng bia.
Đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất (1670), giữ chức Bồi tụng, Tả Thị lang bộ Công, Tri thuỷ sư, thự Trung thư giám, tước Ứng Xuyên nam là Đặng Chúc Trai soạn.
Thủ khoa khoa Bính Dần (1686), Thị nội thư tả Thuỷ Binh phiên Sở sứ Đào Đình Giáp viết chữ.
Thạch tượng cục Nguyễn Duy Nhân người xã An Hoạch huyện Đông Sơn phủ Thiệu Thiên khắc bia.
Kê khai:
- Ruộng 10 thửa, tổng cộng 2 mẫu:
+ 1 thửa xứ Đống Thông 3 sào; 1 thửa xứ Tầm Vậy 1 sào;
+ 1 thửa xứ Lò Ngói 1 sào rưỡi; + 1 thửa xứ Đống Thung 1 sào rưỡi;
+ 1 thửa xứ Đồng Bông 2 sào; + 1 thửa xứ Đồng Sum 2 sào;
+ 1 thửa xứ Đồng Kinh 5 sào; + 1 thửa xứ Chằm Bất 1 sào;
+ 1 thửa xứ Mái Trước 2 sào; + 1 thửa xứ Đồng Sai 1 sào.
- Họ tên chức sắc quan viên bản xã:
Tạ Danh Dương, Nguyễn Ngạn, Ngô Hữu Năng, Ngô Hữu Tài, Ngô Thì Danh, Nguyễn Lâu, Ngô Công Kiên, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Bố, Nguyễn Tiến Triều, Nguyễn Đăng Xuân, Nguyễn Danh Vọng, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dụng, Ngô Giới, Nguyễn Nhân Hiền, Nguyễn Thế Tài, Ngô Thì Giáo, Nguyễn Trong, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Bính, Nguyễn Tiến Phụng, Nguyễn Thiên Niên, Ngô Tiến, Tạ [], Tạ Long, Ngô Thì Chính, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Điệu, Ngô Thì Bình, Nguyễn Thế [Uy], Ngô Công Cẩn.
Thần Hoàng Đình Làng - thôn Hà Khê
- Chuyên mục: Lịch sử - Di tích
SỰ TÍCH ĐÔNG HẢI ĐẠI VƯƠNG
ĐÌNH HÀ KHÊ
(Ông Nguyễn Văn Chu - giao chuyển tháng 07 năm 1952)
Xưa kia ở chợ Hồng Châu, quận Đông Hải, có một nhà họ Đoàn tên Trung, vợ là Nguyễn Thị Khang. Vợ chồng vốn là người tích đức tu nhân, cứu nghèo giúp khổ, một chút ý hại người chẳng mảy, nửa giây tơ tư lợi cũng không. Phàm những việc cứu giúp người đời và các phương làm phúc cứu dân, không có việc nào là chẳng gắng tâm tận sức vẹn tròn.
Một hôm, trời sáng trăng thanh, hai vợ chồng nằm chơi tại phòng đọc sách, thưởng hoa ngoạn nguyệt, bỗng nhiên mơ màng vào giấc, ánh sáng hồng rực rỡ đầy nhà, chợt thấy thằn lằn từ phía tây hiên đến, biến hóa thành một đôi khổng tước. Bà họ Nguyễn bắt được một con đem vê, mộng vàng chợt tỉnh. Từ đấy Bà mang thai, 11 tháng tròn, vừa ngày tháng tám, mùa thu năm Tân Sửu thì sinh một cậu con trai, khôi ngô tuấn tú, kỳ vĩ khác thường, cao lớn hơn thường vạn vạn. Cậu bé vừa đầy tuổi tôi đã biết nói, lên 5 tuổi đã tường âm luật, rất được mẹ cha yêu quý. Ông bà bèn đặt tên là ông Thượng. Năm 15 tuổi, đã tỏ ra có chí lớn, tài xoay trục đất, chí cứu nước giúp dân. Than ôi, cuộc đời thay đổi khôn lường, tai họa thường hay dồn dập. Năm 19 tuổi, cha ông mắc bệnh rồi qua đời; Bà mẹ cũng mất theo. Ông Thượng kêu khóc thảm thiết, kêu trời gọi đất. Thế tình chẳng biết làm sao, bèn chọn nơi đất tốt làm lễ mai táng. Hương hỏa thờ phụng suốt 3 năm liền. Ông thường khóc than rằng: “Bãi biển nương dâu thay đổi, cha mẹ ta tu nhân tích đức, ơn sinh dưỡng cù lao mà nay một chút chưa thể báo đền. Ngày sau dẫu có muôn chung nghìn vạc khôn gặp mẹ cha để được báo đền”.
Năm 23 tuổi, ông vào triều ứng thí, đỗ khoa Mậu tài. Vua (Lý) Cao Tôn liền phong làm Thị Tòng Tham Quan, trông coi chính sự trong triều. Được mấy năm, bấy giờ Hoàng tử mới sinh, Nhà vua bèn sai ông Thượng kén người nhũ mẫu trung thành để nuôi thái tử. Ông bèn tiến dâng bà nhũ trước đã nuôi mình để nuôi Thái tử. Đến ngày Nhà vua thăng hà, Thái tử lên ngôi Hoàng đế gọi là Thuận Tôn[1], thấy ông Thượng là người cùng nhũ mẫu với mình, bèn phong là Tham tán Đại phu, đeo gươm vào chầu, bước lên điện không phải đi nhanh. Từ ấy, ông trông nom công việc trong triều, trải qua đời Thuận Tôn đến đời Nghệ Tôn[2] là lúc nhà Lý sắp mất, ý trời cáo hung. Vua Nghệ Tôn không có con trai, lại mắc bệnh đậu (anh bệnh), chỉ sinh được hai người con gái, người con lớn tên là công chùa Thiên Hinh, gả cho Trần Liễu, người con thứ hai tên là công chúa Phật Kim, tư tình với Trần Cảnh. Thế là quyền lớn trong thiên hạ đều thuộc về họ Trần cả. Đến khi vua Nghệ Tôn xuất gia đi tu, bèn truyền ngôi cho người con gái út Phật Kim, gọi là Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng bèn truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh, gọi là Trần Thái Tôn. Lúc bấy giờ, các bậc trung thần nghĩa sĩ, đều từ chức lui về. Ông Thượng căm tức vô cùng, bèn rút kiếm bỏ chạy về Hồng Châu, kêu gọi dân chúng tụ hội bè đảng xây dựng đồn lớn, đào hào đắp lũy ở An Nhân, quay mặt về hướng Đông, mà xưng vương, tự lập làm Đông Hải Đại Vương, chống nhau với họ Trần. Họ Trần không sao chế ngự nổi. Khi ấy, đạo Kinh Bắc do Nguyễn Nộn chiếm cứ, ông Thượng muốn dành được cả vùng Đông Nam, để khôi phục họ Lý, bèn giao đồn lũy cho Thái tử Đoàn Văn coi giữ, tự mình thân đem xe ngựa và mấy chục gia thần đến đóng ở đất Tây Nam, chiêu dụ các cựu thần họ Lý, được một người tên là Đông Bảng, một người tên là Nam Bính.
Lúc bấy giờ ở trang Hồng Khê, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, nguyên trước kia tổ tiên của hai ông vốn là người ở châu Bố Chính, gặp buổi loạn ly, mới dời cư đến trang Hồng Khê. Trải 3 đời, mới sinh ra thân phụ hai ông là Phan Công Tá, bà mẹ là Dương Thị Khương. Ông bà cũng là người khoan hồng độ lượng, đạo cao đức cả.
Một hôm, nằm mơ thấy hai con gấu nhẩy múa ở trước sân. Một con từ phương Đông đến. Một con từ phương Nam đến. Bà họ Dương bắt được cả hai. Thế rồi, bà có mang. Đến ngày mồng 3 tháng giêng, mùa xuân, bà sinh một bọc hai trai, bèn theo mộng ứng đặt tên con lớn là ông Đông, người con thứ hai là ông Nam. Đến năm Nhâm Dần đời Lý Cao Tôn mở khoa cầu hiền, hai ông đều đăng khoa chiếm bảng, làm quan ở triều Lý tới chức Điện tiền chỉ huy sứ, đến khi họ Trần cướp ngôi, hai ông bèn cáo quan trở về trang Hồng Khê, ở nhà dạy học. Đến khi Đông Hải đại vương tới phủ Lý Nhân, hai ông nghe tin đại vương có chí tôn phò nhà Lý bèn đến theo. Nhân dân trang Hồng Khê làm lễ chúc mừng. Ông Thượng gặp được hai ông rất là vui vẻ, bèn nói với hai ông rằng: “Chúng ta có ba người, anh em xin đồng tâm hiệp sức khôi phục nhà Lý để lại tiếng thơm cho đời sau, há chẳng tốt đẹp lắm sao?”. Nói xong bèn sai các binh sĩ gia thần cùng nhân dân trang Hồng Khê xây dựng cung điện, tuyển chọn người khỏe mạnh ở trang Hồng Khê, mỗi họ mấy người, tổng cộng được 38 người dùng làm tay chân giúp việc, lại phát hịch kêu gọi hào kiệt ở các phủ huyện đồng tâm báo quóc, trượng nghĩa trừ tàn, nếu sau này bình yên, sẽ cùng nhau chung hưởng thái bình. Lúc bấy giờ người đén ứng mộ được hơn 2 vạn người, hội họp ở cung sở Hồng Khê, giết trâu mổ bò, khao thưởng tướng sĩ. Khi ấy ông Thượng cùng hai ông Đông Bảng, Nam Bính bèn cho mời các phụ lão ở trang Hồng Khê đến cùng uống rượu, chính lúc đó ba ông bèn nói rằng: “Bây giờ bọn ta, chạy đông chạy tây, ôm ấp ý chí khôi phục nhà Lý, há có thời giờ cùng nhân dân hưởng vui hay sao? Nay có hành cung ở ngay trong ấp dân; chúng ta lại ban cho 5 lạng vàng giao cho nhân dân mua lấy ao ruộng để làm nơi hương hỏa thờ thần sau này”. Lúc ấy phụ lão nhân dân, ai nấy vâng mệnh lễ tạ. Ba ông bèn đem tướng sĩ và gia thần quay trở về ấp chính An Nhân đánh nhau với nhà Trần, trước sau đến mấy chục trận, đều thu được toàn thắng. Họ Trần không sao chế ngự nổi.
Than ôi! Ngôi thần khí là rất tôn quý, mệnh trời có đó, không thể nào dùng tài trí mà mưu tính được. Một hôm nhà Trần bàn mưu với nhau rằng:
“Nay Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn đều là hổ dữ ngồi ở miền đông bắc, mà nước nhà mới dựng, lòng người chưa phục, chưa thể dùng vũ lực định yên được, không bằng đặt mưu để cho Thượng, Nộn đánh nhau. Hai hổ chọi nhau, thế không cùng tồn tại được. Lúc bấy giờ ta sẽ thừa cơ tiến đánh ắt hẳn thành công và thống nhất được thiên hạ. Đó là kế thả hổ buộc rồng vậy”.
Lúc bấy giờ Trần Thái Tôn bèn gửi thư cho Nộn, bảo Nộn nếu như bắt được Thượng thì sẽ chia ba thiên hạ cho làm vua. Nộn biết được, bèn sai sứ đưa lễ đến cho Thượng xin giảng hòa, có lời rằng:
“Trước kia tôi vốn không biết ngài có chí phò Lý diệt Trần. Nay đã biết được, xin cùng hòa giải, để làm thế môi răng nương tựa nhau”.
Thượng vốn tính khoan hậu, đại lượng, cả tin tiếp đãi sứ giả của Nộn, bèn hẹn ước làm lễ ăn thề ở xứ Đồng Đao. Lòng ông Thượng rất tin, nên không phòng bị, chỉ mang theo mấy chục gia nhân đến xứ Đồng Đao. Chưa kịp làm lễ, quân mai phục của ông Nộn hò reo bốn phía kéo đến đánh úp bao vây mấy chục vòng. Ông Thượng vừa đánh vừa phá, không sao thoát ra khỏi vòng vây, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Đem quân ra trận, chưa đánh nhau mà thân đã chết, thật khiến cho kẻ anh hùng lệ thấm đầy vạt áo”. Than xong bèn rút thanh kiếm đeo bên mình tự cắt cổ chết. Bấy giờ là vào ngày 15 tháng 7, tự nhiên trời đất tối tăm, đang giữa ban ngày mà trời tối đen như ban đêm. Khi ấy ông Đông Bảng và ông Nam Bính cùng Thái tử Đoàn Văn nghe tin, bèn đem hết binh mã ra đánh nhau với ông Nộn. Hai bên đánh nhau đến 50 hợp vẫn chưa phân thắng bại.
Than ôi! Lòng trời chẳng phù hộ họ Lý, hai ông cùng với Thái tử Đoàn Văn đánh nhau với Nguyễn Nộn từ tháng 8 cho đến ngày 25 tháng 12 thì cùng đều hóa cả. Sau khi các ông đã hóa cả rồi, nhân dân ở các địa phương ngày thường các ông có lập hành cung ở đó đều lập miếu thờ phụng. Phàm binh sĩ tượng voi của nhà Trần đi ngang qua miếu đại vương đều bị vật chết tươi. Vua Trần Thái Tông phải sắm sửa xe ngựa tự mình đi đến miếu thờ Đại vương làm lễ bái tạ, lại ban cho đại vương sắc chỉ, sai đem về trùng tu miếu mạo, cho dân trang Hà Khê lập miếu thờ phụng để hương lửa lưu truyền muôn đời không dứt. Từ đó về sau trải qua các đời Trần Lê, đều có công cứu nước giúp dân. Vậy nên các triều vua đều có sắc phong mỹ tự, để thờ cúng muôn đời, còn mãi cùng trời đất. Than ôi, tốt đẹp thay!
Link bản gốc: http://hakhe.vn/tailieu/ThanTichLangHaKhe.pdf
Trang 1 / 2